Lịch sử giáo xứ

2012-05-01 00:00

- Thành lập: 11.06.1730
- Bổn mạng: Giuse thợ (1/5)
- Linh mục quản xứ: Augustinô Mai Hứa
- Ðịa chỉ hiện nay: Diên Sơn, Diên Khánh - Khánh Hoà
- Điện thoại: 058 3774 164

Lược sử:

1. Vị trí địa lý

Bản đồ

Nằm trong phạm vi hai xã Diên Sơn và Diên Thuỷ, cực bắc Huyện hành chánh Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà. Giáo xứ Cây Vông một thắng cảnh hữu tình chạy dọc dài 2 km hai bên tỉnh lộ 8, tả ngạn sông cái với khu Giáo đường khang trang ở trung tâm. Ðàng trưóc thánh đường, xa xa con sông cái hiền hoà uốn khúc tiếp cận đồng lúa Ðồng Hiền tươi tốt hai mùa. Ðàng sau, bát ngát cánh đồng Ðại Ðiền trù phú bao quanh va dãy Ðại An, Hòn Ngang hùng vĩ chạy dài từ đông sang tây che chở.

Ðông giáp Giáo xứ Ðại Ðiền (từ Cầu Gỗ đến Quán Ðôi đường cái đá, và từ trường học Phú Ðiền đến nhà thờ họ Ngô, ranh giới Diên Ðiền và Diên Sơn). Tây giáp Giáo xứ Ðồng Dài (Hòn Ngang). Nam giáp Giáo xứ Hà Dừa (Sông Cái). Bắc giáp Núi Am Chúa (Diên Sơn 1, Ðại Ðiền Nam).

Gồm Xã Diên Thuỷ, Diên Sơn 2, và một phần Thị Trấn Diên Khánh

2. Hình thành và phát triển

Theo cuốn lịch sử truyền giáo Nam bộ (Histore de la Mission de Cochinchine, 1658-1823) của Linh mục Adrien Launay thuộc các dòng thừa sai Bale (MEP) thì vào ngày 11.06.1730 Linh mục Gouge, trong thư viết cho Linh mục M.X (một Lm bạn) Ngài nói ngay từ tháng 3.1730 nhân ngày lễ Chúa Giêsu Thăng thiêng và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Ngài đã tới thăm hai giáo xứ Hà Dừa và Nhà Gai và Ngài đã ở lại đó 3-4 ngày. (nhà Gai hay Lò Gai là tên địa điểm cũ của Cây vông cách thánh đường hiện tại chừng vài ba cây số về hướng tây).

Trong cuốn nhật ký của Linh mục Flopy, thừa sai người Pháp, Ngài viết: "Ngày 16.4.1731 Linh mục cho nhà phước 12 quan tiền để cứ mỗi tháng giao cho họ là 1 quan và khu vườn nơi có nhà thờ nhà Gai, do Ðức Cố Giám Mục Tilopolis đã mua. Còn tiền mua nhà thì giáo dân trả một nửa. Linh mục Gouge đã cho họ 20.000 đ. Và Linh mục Flopy cho 5.000đ.

Vào những ngày 21-24.9.1740, các Linh mục thừa sai trở lại thăm ba giáo xứ Hà Dừa, Nhà Gai và Vũ Cang (Bình Cang) ngày 23.9.thăm nhà Gai. Về nhà thờ Nhà Gai sách có ghi: nhà thờ Nhà Gai đã được xây dựng do lệnh và công lao của Cha Gouge. Nhà thờ nhà Gai được dâng hiến cho Thánh Phêrô tông đồ. Lúc bấy giờ đã có 6 thầy giảng, có kinh nghiệm làm việc rất tốt.

Ngày 10.8.1747 Linh mục Bennetat viết thư cho Linh mục G.B Maigre. Trong thư ngài kể lại việc Ngài trở lại Nha Trang và đi ban bí tích cho các xứ trong mùa chay năm 1747. Ngài viết "tuy tôi mới trở về Nha Trang, thì ngay ngày hôm sau, tôi lên thăm nhà thờ Nhà Gai. Nhà thờ này cách xa chỗ tôi ở (Nha Trang) chừng non nữa ngày đàng. Ở đấy giáo dân đang chờ tôi để hoà giải cho một vài gia đình. Tôi giải quyết xong các việc tranh chấp của họ và làm cho mọi người nhất trí với nhau, tuy mới đầu họ làm cho tôi thấy khó mà làm cho họ vừa lòng. Trong vòng 6 ngày, tôi ban bí tích cho giáo dân xứ này: có cả thay 130 người xưng tội, 110 người chịu lễ,12 người rửa tội, trong số đó có 2 người lớn. Tôi cũng chứng hôn cho 3 đôi vợ chồng và ban bí tích Xức Dầu cho 3,4 bệnh nhân và vài ngày sau họ qua đời,. Phần lớn giáo dân trong xứ này càng ngày họ càng thêm lòng đạo đức sốt sắng.

Lịch sử cận đại:

Trên đây là vài dòng lịch sử cách đây gần 300 năm, cho thấy giáo xứ Cây Vông là một trong các giáo xứ kỳ cựu nhất của vùng Nha Trang, được hình thành cùng một thời gian với Hà Dừa, Bình Cang. mà thánh đường và khu vườn của Nhà Gai là do Cố Giám Mục Tilopolis và các Linh mục thừa sai người Pháp cùng với sự đóng góp của giáo dân đã mua từ những năm 1730. Nhà Gai, Hà Gai, Nà Gai hay Lò Gai nằm trên khu đất tục danh xứ Tiên Hương, thuộc thôn Phú cốt trên bờ tả ngạn sông cái, xây mặt vào núi Hòn Ngang. Di tích nền thánh đường, nghĩa địa hiện nay vẫn còn và gần đó mấy sào đất thổ là tài sản của giáo xứ.Lúc bấy giờ chưa có cha sở.

Năm Tự Ðức ngũ niên 1851, sắc chỉ triều đình cấm đạo, giáo dân chạy tản mác. Nhà thờ bị đốt phá bình địa. Thời gian sau, tình hình lắng dịu, giáo dân tề tựu về xây cất lại thánh đường ở thôn Ðại Ðiền Tây, trên vùng đất của Ông Nguyễn Nay, bấy giờ do Cha Lão làm cha sở tiên khởi.

Năm Văn Thân nổi lên chống Pháp, Ðồng thời bách hại Công giáo, trong khi cố Minh Ganier lãnh đạo giáo dân Hà Dừa di tản vào Sài Gòn thì giáo dân Cây Vông một số lánh nạn ngoài Hòn Khói (Ninh Hoà) Tu Bông (Vạn Giã) hoặc đón tàu đi Quinhơn, một số còn lại theo Cha Lão lẫn trốn trên núi Hòn Ngang hay chạy trốn trong nhà người lương ở thôn Ðại Ðiền Nam ngày đêm núp trong mái (loại lu lớn) dùng chứa đường, bỏ trống. Thánh đường lại bị đốt phá. Việc tiếp tế cho cha Lão và các chức việc trên núi thật gây go, nguy hiểm. Lúc đầu giáo dân còn đưa cơm trong ống tre, sau hết gạo, phải lấy trấu rang nghiền nát bỏ vào ống tre đưa lên cho Ngài nấu cháo ăn với lá cây và thịt rừng. Chúa quan phòng sắp đặt, trong thời gian lẫn trốn trên núi. Cha và các chức việc được ăn thịt hươu nai do cọp beo bắt an bỏ dở.Khi tạm yên, cha con tề tựu nhau về chung nhau xây cất thánh đường mới trên khu đất hiện nay. Cha Lão đã qua đời và được an táng trong thánh đường. Cũng từ đó, Cây Vông không còn cha sở nữa, giáo dân phải đi dự lễ khi ở Bình Cang, khi ở Hà Dừa, (đời Cố Ngoan và cố Bình) hoạ hoằn mới có một Cha về dâng Thánh lễ chúa Nhật một lần.
Mãi đến năm 1910, cố Quới được thuyên chuyển về hà Dừa, luân phiên một tuần ở Hà Dừa, một tuần ở Cây Vông, giáo dân mới được thường xuyên dự lễ. Cố Quới coi sóc Hà Dừa, kiêm cả Cây vông và Ðại Ðiền. Ngài qua đời năm 1924

Trận cuồng phong năm nhâm tý 1912 tàn phá khốc liệt Khánh Hoà, đã làm sập đỗ ngôi thánh đường. Ðến năm 1913, cố Quới cho xây cất lại đồ sộ hơn, cột kèo, bàn thờ được chạm trổ tinh vi, tồn tại đến ngày nay.

Bão năm nhâm tuất 1922 làm hư tiền đưòng và mãi đến 1939, Cha Stêphanô Phan văn Bính, với sụ cộng tác đắc lực của chức việc và giáo dân, nhất là ông câu nhì Nguyễn Ðiểu (vẽ kiểu và đôn đốc) đã trùng tu lại tiền đường, có tháp chuông kiên cố, song phải đợi đến năm 1952, tháp chuông mới có chuông, do ông Antôn Nguyễn Lâu (đệ tử cố Quới) dâng cúng.

Năm 1938, Cố Quý (P.Tourte) đến làm cha sở trong vòng 6 tháng. Chính Ngài tự tay cưa đục, sửa chữa lại bàn thờ gọn gàng hơn.

Năm 1941 Linh mục Antôn Nguyễn Chẩm được bổ nhiệm đến coi sóc giáo xứ và cũng từ đó Cây vông liên tục có Linh mục coi xứ.

Cây vông từ 1941-1996:

Như vừa nói: từ 1941 Cây Vông liên tục có Cha Xứ, nhưng Cây vông lại phải trải qua một thời kỳ điêu đứng nữa. Cha già Antôn đã có công mở mang giáo xứ và để lại trong lòng mọi người một kỷ niệm xương máu và nước mắt.

Năm 1945, Ngài bị vu cáo là Việt Gian và bị tống giam cùng với ông câu nhứt Hồ Khải, ông biện Nguyễn Dược (thân phụ của Linh mục Phêrô Nguyễn quang Sách) ông biện trần Lục và ông hội đồng sự (người Nha Trang tản cư) Khi Ngài còn trong vòng lao lý thì một hôm trời mưa tầm tả, bổn đạo kéo nhau đi xem xử tử việt gian tại bãi Hàn Sao (bãi cát xã Diên Thuỷ) cứ nghĩ rằng vị chủ chăn của mình phải bị rơi đầu, nhưng mọi người đã thở phào nhẹ nhõm khi không thấy có Cha sở mình trong số 7 tử tội bị trói vào cột tre. Sau đó Ngài được thả tự do và bí mật theo dõi. Vào đầu năm 1946, một hôm vào khoảng nửa đêm, có tiếng đập cửa nhà xứ gọi cha đi kẻ liệt, gọi mãi không được nhóm người khủng bố nổ súng, đại xuyên qua cửa chính vào nhà may không có ai bị thương. Riêng cha già đêm ấy lánh mặt, nghĩ đêm ở phòng mặt áo sau bàn thờ. Gian nan khốn khó chưa phải đã qua. Khoảng tháng 3.1946 nhà xứ bị bao vây, tấn công cha Già bị thương suýt chết. Sau khi được cứu thoát, Cha được đưa đi chữa bệnh.. giáo dân hoảng sợ, kéo nhau sang tá túc bên Hà Dừa và Thành. Một số tìm kế sinh nhai nơi khác. Số còn lại tiếp tục cuộc sống trong lo âu hồi hộp, ngày bươn chải làm ăn. Tối đi ngủ đồn. Cuộc tản cư đánh dấu sự tan tác của xứ đạo. Sau khi điều trị 3 tháng tại bệnh viện các bà Vinh Sơn, cha Chẩm về lại giáo xứ với thân xác mặt mũi đầy những vết tích dọc ngang. Sau này khi nhổ tóc ngứa cho Ngài các em nhỏ thỉnh thoảng còn nhổ được những mãnh lựu đạn nhỏ trồi lên trên da đầu Ngài.

Khoảng năm 1948 Linh mục Nguyễn Khắc Cần được bổ nhiệm phụ tá cho Ngài và sau đó thay thế Ngài, để Ngài coi sóc giáo xứ Ðại Ðiền nhỏ hơn. Với sức trẻ trung cha đã hoạt động mạnh, nhiều đoàn thể, công giáo tiến hành được tổ chức, trường học được xây cất, nhà thờ nới rộng và có ánh sáng đèn điện. Một phòng phát thuốc được mở để giúp đỡ đồng bào trong vùng.. Sau 8 năm công khó, Cha Cần đã được bổ nhiệm nơi khác. Cố Vị tiếp đến là Linh mục Martinô Hộ, Cố Thơm mỗi vị lãnh đạo giáo xứ ít tháng, sau đó Cha Gioan Phùng văn Như đến làm quản xứ từ thánh 11.1957 đến đầu năm 1976. Thời gian này, cũng có lúc gian nan: 1965 khuôn viên thánh đưòng bị pháo kích. Tình hình an ninh địa phương bị đe doạ, phân nữa giáo dân lại ra đi lánh nạn. Năm 1967 lần lượt họ quy tụ về cùng với Cha xứ tu bổ thánh đường, trường học khang trang. Năm 1970 cha lại cho nới thêm một phòng học nữa để đủ chỗ cho các em học sinh. Với dân số trên 1000 người lúc đó, Cây Vông đã tổ chức được nhiều hội đoàn công giáo tiến hành, sinh hoạt đều đặn. Về ơn gọi, Cây vông đã cung cấp cho Giáo hội 5 Linh mục và nhiều tu sĩ, tu sinh thuộc các dòng. Ða số giáo dân sống nghề nông, nương rẫy, mức sống tạm đủ.

Sau ngày 30.04.1975 vì tuổi già sức yếu. Cha già Như lâm bệnh cần đi chữa trị và giải phẫu tại Nha Trang, trong khi ấy Ðức Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận từ dạo tháng 8.1975 đã được nhà nước đưa về tạm giam tại Nhà xứ Cây vông. Ðức Giám mục Phaolô Nguyễn văn Hoà, với sự đồng ý của chính quyền cách mạng đã cho Linh mục Vincent Lê công Khương vềø Cây Vông vừa để coi sóc giáo xứ thay cha già Như vừa để giúp đỡ Ðức Cha Thuận bị quản thúc.

Linh mục Lê Công Khương quản xứ từ dầu năm 1976-1990. Sống vào thời buổi khó khăn, hầu như mọi sinh hoạt tôn giáo đèu phải có phép của nhà nước, nên giáo xứ hầu như bị tê liệt, chỉ còn thánh lễ chúa Nhật là chính. Vào khoảng đầu năm 1990, cha già ra đi nghĩ hưu, Ðức Cha Nguyễn văn Hoà chỉ định Linh mục Alosiô Nguyễn hùng Vị đương kim phó xứ Bình Cang lên Cây Vông dâng lễ và ban các bí tích vào các ngày Chúa nhật. Mãi đến ngày 6.12.1990 Linh mục Benedicto Nguyễn công Phú được Ðức Cha Hoà bổ nhiệm quản xứ Cây Vông mới được phép nhà nước cho nhận xứ và Linh mục Tổng Ðại Diện Phêrô Nguyễn quang Sách lên Cây Vông chủ toạ nghi thức nhận chức.

Nhờ tinh thần phục vụ nhiệt tình của Ngài, nhờ sự hướng dẫn và sự hổ trợ tích cực của Ðức Giám mục địa phận, nhờ luồng gió địa phận, nhờ luồng gió mới đổi thay quan trọng trên thế giới cũng như tại Việt Nam của những năm 1989 đến nay, tình hình sinh hoạt của giáo xứ như đang ở vào thời kỳ phục hưng và tiến mạnh lên về mọi mặt.

Các linh mục phụ trách giáo xứ từ ngày thành lập đến nay:

Linh mục R.P Salomez (Cô Quới) 1913

Linh mục Stêphanô Phan văn Bính 1939

Linh mục Antôn Nguyễn Chẩm 1941

Linh mục Augustinô Nguyễn khắc Cần 1948
Linh mục R.P Jeanningros (Cố Vị) 1955
Linh mục Martinô Nguyễn Hộ 1956

Linh mục R.P Thomeret (Cố Thơm) 1957

Linh mục Gioan Phùng văn Như 11.1957- 1.1976

Linh mục Vincent Lê công Khương 1.1976- 6.1990

Linh mục Alosiô Nguyễn hùng Vị 6.1990 - 12.1990
Linh mục Benedicto Nguyễn công Phú 6.12,1990 - 8.10.2006
Linh mục Augustinô Mai Hứa 8.10.2006 - đến nay
 

 Sinh hoạt giáo xứ

1. Các lớp giáo lý

Dạy giáo lý "không ai được miễn trừ khỏi học giáo lý" nên người cùng học giáo lý. Ngoài 22 lớp giáo lý cho lớp tuổi từ 5-6 đến 17-18, còn có lớp vào đời lớp dự bị hôn nhân, có kiểm tra, khảo hạch, có cấp chứng chỉ giáo lý và tưởng thưởng khích lệ. Ðó là chưa kể lớp giáo lý dành cho dự tòng. để phục vụ các lớp giáo lý cho trẻ em, cha Sở ngay từ đầu khi mới nhận chức quản xứ đã tổ chức nhiều khoá đào tạo giảng viên giáo lý không những cho Cây vông mà còn cho các xứ lân cận nữa. Hiện nay số giáo lý viên của Cây vông trên dưới 40 là thành phần tích cực nhất và được chăm sóc tận tình nhất.

2. Các hoạt động

Ý thức rằng nạn mù chữ còn tệ hại hơn nạn đói cơm, cha xứ tổ chức các lớp đêm chống nạn mù chữ chẳng những miễn phí mà còn có thưởng để động viên các em đi học. Ngài cũng đã tổ chức các lớp học tình thương bổ túc văn hoá cho số con em bỏ học tiểu học, góp phần tích cực vào công tác văn hoá xã nhà Ðang có phong trào tranh đua nhau học hành, trong thời đại đổi mới đất nước,thời đại công nghiệp hoá, nên có rất nhiều em nam nữ đậu vào các trường đại học khác nhau trong nước.

Nhà thờ cũ

Nhà thờ mới hiện tại

Các Tượng đài Thánh Tâm Đức Mẹ và Thánh Giuse Thợ